Thông tin chi tiết

Tranh Chữ Đức( Hán nôm) – Đồng vàng nguyên chất 100%
Chất liệu: Đồng vàng nguyên chất, lền gỗ sơn màu đỏ, khung composite chống mối mọt, mặt tranh lồng kính hoặc mika.
Kích thước 60*60cm

ý nghĩa ề chữ đức
Đức là một khái niệm triết học, đạo đức quan trọng và phổ quát trong các truyền thống đạo học phương Đông. Lão giáo, Khổng giáo và Phật giáo quan niệm về chữ đức có phần khác biệt nhau nhưng đại thể thì tương đồng trên bình diện đạo đức. Theo Tự điển Hán-Việt (Thiều Chữu), chữ đức có nhiều nghĩa như đạo đức, đức hạnh, điều thiện, ân đức. Từ điển Tiếng Việt (Viện Văn học-Hoàng Phê chủ biên), đức là cái biêu hiện tốt đẹp của đạo lý trong tính nết, tư cách, hành động của con người; tính tốt, hợp với đạo lý; điều tốt lành do ăn ở có đạo đức; ân huệ.

Theo phép chiết tự của chữ Hán, đức là chữ hội ý, có nghĩa gốc là đi theo con đường đạo. Đạo giáo quan niệm tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hòa với người là có đức. Theo Đạo Đức kinh, đức luôn vận hành với đạo, trong đó đạo là yếu tố có trước và đức có sau, phụ thuộc vào đạo, “Đạo sinh vạn vật và đức bao bọc nuôi dưỡng che chở muôn vật”. Khổng giáo quan niệm sống đúng với luân thường là có đức. Đức là cái gốc của muôn hạnh cũng là cái gốc để con người lập thân (đức dĩ bổn dã). Đức là đức hanh tốt, phần tốt đẹp, thẳng thắn của con người. Kinh Dịch có câu “Quân tử tiến đức tu nghiệp” nghĩa là người quân tử rèn luyện về phẩm hạnh, đạo đức để vun bồi, xây dựng sự nghiệp. Trong Phật giáo, chữ đức mang ý nghĩa vô cùng rộng lớn, bao hàm các phương diện thể, tướng và dụng của đức với Nhị đức, Tam đức, Tứ đức, Ngũ đức… Theo Từ điển Phật học Huệ Quang (Thích Minh Cảnh-chủ biên), đức là điều đạt được do sự tu hành chánh đạo; công đức của quả vị Phật. Nhị đức gồm Trí đức tức là Bồ đề-trí huệ viên mãn và Đoạn đức tức Niết bàn-dứt hết phiền não. Ngoài ra, Tính đức là bản tính chân thật vốn có và Tu đức đạt được do tu hành cũng gọi là Nhị đức. Tam đức là ba đức tướng của Niết bàn gồm: Pháp thân đức là Chân như sẵn đủ xưa nay của tất cả các pháp, Giải thoát đức là thoát ly sự trói buộc của phiền não và Bát nhã đức là trí tuệ giác ngộ. Tam đức về phương diện ba tương của quả vị Phật gồm: Trí đức là trí tuệ quán sát tất cả pháp, Đoạn đức là diệt hết tất cả phiền não, Ân đức là nguyện lực cứu độ chúng sanh. Mặt khác, Tam đức về phương diện ba đức tướng viên mãn của Như Lai gồm Nhân viên đức, Quả viên đức và Ân viên đức. Nhân viên đức là nhân hạnh của Như Lai hoàn toàn đầy đủ nhờ: Tu tập phước và trí không bỏ sót; trải qua ba a tăng kỳ kiếp vẫn không mệt mỏi; tinh tấn mạnh mẽ không hề phế bỏ một sát na; cung kính cầu học, không hề hối tiếc, khinh mạn. Quả viên đức là quả đức của Như Lai viên mãn gồm: đầy đủ trí tuệ Vô sư trí, Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí và Vô công dụng trí; đoạn trừ tất cả phiền não; hóa độ được kẻ khó hóa độ, quyết nghi được những điều khó quyết nghi; có sắc tướng đẹp đẽ, có sức mạnh, tỏa hào quang. Ân viên đức là đức từ bi thương xót chúng sanh của Như Lai hoàn toàn viên mãn để cứu thoát chúng sanh ra khỏi ba đường ác. Tứ đức, bốn đức Pháp thân của Như Lai gồm: Thường, thể tính của Pháp thân Như Lai là thường trụ, không bao giờ dời đổi; Lạc, Pháp thân Như Lai lìa hẳn các khổ, trụ trong an vui hoàn toàn của Niết bàn tịch tịnh; Ngã, Pháp thân Như Lai tự tại vô ngại, siêu việt hữu ngã và vô ngã; Tịnh, Pháp thân Như Lai lìa cấu nhiễm, thanh tịnh và vắng lặng. Và tất nhiên, trong đạo Phật, chữ đức luôn mang ý nghĩa quan trọng là đạo đức, đức hạnh. Phật học từ điển (Đoàn Trung Còn) định nghĩa: Điều lành (thiện), sự ăn ở theo giới hạnh, những việc có lợi ích cho chúng sanh, ấy là đức. Khái niệm Ngũ đức thiên về phương diện đạo đức này. Đơn cử như năm đức của giới sư gồm: giữ giới; mười hạ trở lên; thông hiểu tạng Luật; thông hiểu thiền định; có trí tuệ. Năm đức một vị Sa di phải biết là: một là phát tâm xuất gia, vì cảm bội Phật pháp; hai là hủy bỏ hình đẹp, vì thích ứng pháp y; ba là cát ai từ thân, vì không còn thân sơ; bốn là không kể thân mạng, vì tôn sùng Phật pháp; năm là chí cầu Đại thừa, vì hóa độ mọi người (kinh Phước Điền) v.v… Mặc dù chữ đức trong Phật giáo có vô lượng nghĩa nhưng đều được thiết lập trên nền tảng cơ bản là hoàn thiện nhân cách đạo đức nơi mỗi con người. Vì thế, để tu nhân tích đức (cho mình trong hiện tại và mai sau hay cho con cháu về sau) theo Phật giáo thì có nhiều phương thức nhưng khái quát nhất và dê thực hành nhất là tuân thủ năm nguyên tắc đạo đức của người Phật tử (không giết hại, không trộm cướp, không tà hạnh, không nói dối và không dùng những chất gây nghiện, say sưa) đồng thời học tập và ứng dụng triệt để bài kệ: “Không làm các điều ác/Chuyên làm các việc lành/Giữ tâm ý thanh tịnh/Đó chính là lời Phật” trong đời sống hàng ngày.